20 năm trước cừu Dolly đã trở thành ngôi sao trong giới khoa học bởi kỹ thuật nhân bản vô tính đã đem đến thành công rực rỡ. Dolly (1996-2003) mặc dù là một thành công nhưng cũng dấy lên nhiều tranh cải trong giới khoa học không chỉ ở mặc đạo đức mà còn về sự ổn định của cá thể cừu.
Sau quá trinh nghiên cứu 20 năm về nhân bản vô tính kể từ phiên bản đời đầu cừu Dolly 1996, tiếp đó đến các phiên bản chị em khác vào năm 2007, 4 cá thể cừu được đặt tên Debbie, Denise, Dianna và Daisy. Hiện tại sức khỏe của 4 chị em đang ổn định và bước sang năm thứ 9. Hiện 4 cô cừu này đang được chăm sóc bởi giáo sư Kevin Sinclair tại Viện nghiên cứu phát triển sinh học Nottingham. Ông đã tiếp quản dự án nghiên cứu cừu Dolly từ tay giáo sư Keith Campbell, một trong những thành viên sáng lập dự án và đã qua đời vào năm 2012.
Những nghiên cứu về đời đầu phiên bản vô tính cho rằng các cá thể dễ mắc chứng béo phì và tiểu đường. Để xác định xem liệu 4 người em của Dolly có mắc chứng bệnh nào từ quá trình nhân bản hay không, nhóm nghiên cứu đã đánh giá tình hình sức khỏe của từng con cừu dựa trên một loạt các chỉ số như mức độ dung nạp đường, độ nhạy với insulin, nhịp tim và huyết áp. Đồng thời, những con cừu cũng phải trải qua những bài tập cơ xương kết hợp với chụp X quang và MRI. Kết quả đã được công bố ở tạp chí uy tín thế giới Nature, nhóm này khẳng định:” Phần lớn các cá thể cừu đều có sức khỏe ổn định. So với những loài khác, những con cừu này cho thấy biểu hiện của bệnh viêm khớp với mức độ tương đối thấp, một điểm khác biệt đáng chú ý so với Dolly. Một phần lý do có thể do chế độ chăm sóc chu đáo từ khi chúng mới sinh."
Các nhà nghiên cứu cho biết rằng đây chính là nghiên cứu định hướng theo dõi sức khỏe đầu tiên trên những cá thể nhân bản vô tình được tạo thành từ Kỹ thuật chuyên nhân tế bào soma (SCNT) - quá trình khi xưa được dùng để tạo ra Dolly. Về cơ bản, kỹ thuật SCNT sẽ lấy hạt nhân DNA từ tế bào soma và đặt vào trong trứng, sau đó được kích thích để bắt đầu quá trình hình thành sự sống mới.
Gs. Sinclair cho biết: "Rõ ràng sau quá trình chuyển nhân đã tạo ra một tập hợp các tế bào trong phôi thai đã được tái lập trình hoàn toàn. Kết quả quả là chúng biểu hiện không chỉ trong quá trình mang thai mà còn có mặt trong suốt quá trình trưởng thành một cách bình thường, đúng mục đích. Đây chính là lý do mà chúng tôi tin rằng mục đích ban đầu của quá trình nhân bản đã được thực hiện thành công bởi sự bình thường của các cá thể cừu."
Mặc dù là bản sao nhưng những cá thể cừu nói trên không hoàn toàn giống với Dolly. Chính xác hơn thì mặc dù quá trình nhân bản sử dụng cùng một nhân DNA nhưng mỗi cá thể cừu sở hữu một sợi ti thể DNA riêng. Và cho dù ti thể chỉ là một mảnh nhỏ của bộ gen nhưng vẫn có khả năng đây chính là nguồn gốc dẫn tới sự khác biệt giữa các cá thể cừu.
Ứng dụng nhân bản vô tính trên quy mô Thương mại hóa
Thách thức trong thời gian tới đối với nhóm nghiên cứu chính là đưa kỹ thuật SCNT tới điểm có thể áp dụng trên quy mô thương mại. Trong thí nghiệm đầu, Dolly cá thể duy nhất có thể đạt tới tuổi trưởng thành trong số 277 thử nghiệm nhân bản, nhưng nhóm nghiên cứu cho biết rằng hiện kỹ thuật của họ đã nâng tỷ lệ này lên 20%.
Mặc dù có một số hạn chế về mặt kỹ thuật nhưng nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đang tìm cách đưa kỹ thuật nhân bản vào các ứng dụng thương mại. Một số phương pháp nhân bản đã được chứng minh tính khả thi. Điển hình như các nhà nghiên cứu Hàn Quốc tuyên bố đã có thể nhân bản 500 cá thể động vật mỗi ngày. Thậm chí có nhóm còn đang tìm cách hồi sinh những loài động vật đã chết. Hiện tại ở Việt Nam, Gs. Thuận Đại Học Quốc Tế, TP. HCM đang từng bước nhân bản bò tót từ những cá thể đã chết. Tuy nhiên, vấn đề cần lưu ý nhất chính là dù cho có hoàn thiện tới đâu thì vì những lý do đạo đức và pháp lý, và hầu như sẽ không có việc nhân bản( hợp pháp) con người dù bất cứ mục đích nào.
Nguồn: SBC Scientific tổng hợp